Viêt bai văn: Phân tích hình tượng người nông dân Nghĩa sĩ cần giuộc trong (15 câu đầu của bài văn tê nghĩa sĩ cần giuộc)

Question

Viêt bai văn: Phân tích hình tượng người nông dân Nghĩa sĩ cần giuộc trong (15 câu đầu của bài văn tê nghĩa sĩ cần giuộc)

in progress 0
Kim Chi 4 years 2020-11-20T14:47:07+00:00 3 Answers 718 views 0

Answers ( )

    0
    2020-11-20T14:49:00+00:00

    * 15 câu đầu của bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc:

    Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văn học mà trong suốt thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bài văn được tác giả viết theo yêu cầu của Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.

    Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà văn đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:

    “Hỡi ôi!

    Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.”

    Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Trước cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước, cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới được bày tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa.

    Tấm lòng, tình yêu giang sơn, Tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc hơn khi tác giả đã dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn sau.

    “Nhớ linh xưa:

    Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,

    Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.”

    Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng một mình mà chẳng nói với ai. “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó” đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó. Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, là ngựa.

    Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:

    “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

    Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.

    Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên quyết tâm làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là “bát cơm manh áo”, là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi.

    Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Quốc gia đại sự là của vua quan và triều đình. Vậy mà giờ đây, giặc Lang Sa tràn sang cướp nước, gieo rắc “mùi tinh chiên” đã ba năm mà mặt mũi quan quân chẳng thấy ở đâu, có chăng nữa thì chỉ là lũ hèn nhát chạy dài. Lòng căm thù giặc của những người nông dân luôn sục sôi: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”.

    Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.

    “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.

    Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”. Cảnh tượng ấy khiến họ không thể bưng tai bịt mắt làm ngơ. Lòng yêu nước thôi thúc từ nghìn xưa trong huyết quản, họ tự nguyện đứng lên đánh giặc:

    “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”

    Nhưng “Khá thương thay” những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc:

    “Khá thương thay!

    Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

    Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.”

    Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa.

    Trong bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu đã khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu sắt, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “một manh áo vải”, vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đấu bằng chính tinh thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.

    “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,

    Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.”

    Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.

    Bài văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:

    “Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”

    “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”.

    Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân.

    Tiếng khóc trong bài tế không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà tác giả thay mặt nhân dân cả nước khóc thương, biểu dương công trạng người liệt sĩ. Nó không chỉ hướng về cái chết mà còn hướng về cuộc sống đau thương của cả dân tộc. Không chỉ gợi nỗi đau thương mà còn khích lệ lòng căm thù giặc, ý chí tiếp nối sự nghiệp dở dang của người chiến sĩ.

    Đoạn văn đầy những động từ, những cụm động từ miêu tả hành động mãnh liệt, hào khí bừng bừng. Trước những con người anh hùng ấy, quân giặc hung dữ với súng đạn nghênh ngang đều như co rúm lại, thấp bé, tồi tàn đến thảm hại. Có thể nói hình bóng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc nổi lên trên nền trời rực lửa, sừng sững như một tượng đài kì vĩ.

    Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực: ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động. Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các thế hệ đi sau khi đọc được bài văn tế này mà noi theo để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.

     

    0
    2020-11-20T14:49:04+00:00

    A. Mở bài

    – Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

    – Khái quát hình tượng người nông dân nghĩa sĩ.

    B. Thân bài

    1. Hoàn cảnh

    a. Hoàn cảnh sáng tác Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

    – Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (1859)

    – Nghĩa quân chiếm được đồn địch, đốt nhà dạy đạo và đâm bị thương đồn trưởng Dumont, chém chết một số lính Mã tà, Ma ní. Phía nghĩa quân hi sinh 27 người.

    b. Vẻ đẹp người nông dân nghĩa sĩ

    – Người nông dân Nam Bộ nghèo khó, “côi cút làm ăn”sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp.

    – Lòng căm thù, ghét cay ghét đắng trước cảnh kẻ thù xâm chiếm đất nước ta.

    C. Kết bài

    – Đánh giá chung

    – Suy nghĩ của bản thân

    0
    2020-11-20T14:49:16+00:00

    Để tìm câu trả lời chính xác các em hãy tham khảo hoàn cảnh sáng tác văn tế nghĩa sĩ cần giuộc các nguồn hoc24.vn, lazi.vn, hoidap247.com để thầy cô và các chuyên gia hỗ trợ các em nhé!

Leave an answer

Browse

Giải phương trình 1 ẩn: x + 2 - 2(x + 1) = -x . Hỏi x = ? ( )