Nhận xét về bài thơ Vội vàng, có ý kiến cho rằng: Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch triết luận sâu sắc. ” Anh / chị

Question

Nhận xét về bài thơ Vội vàng, có ý kiến cho rằng: Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch triết luận sâu sắc. ” Anh / chị có đồng tình với ý kiến trên? Hãy viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của anh/chị

in progress 0
Diễm Thu 4 years 2021-01-06T23:28:00+00:00 3 Answers 417 views 0

Answers ( )

    -1
    2021-01-06T23:29:57+00:00

    I, MB: Giới thiệu tác giả, tác phẩm 

              Nêu nhận định

    II, TB:

     1, Gỉai thích 

       – HCST “Vội vàng”

       – Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch triết luận sâu sắc.\

     2, Phân tích 

     a, 4 câu đầu: 

    – ƯỚc muốn của tác giả:

    + Tắt nắng để màu đừng nhạt

    + Buộc gió để hương đừng bay -> Ước muốn kì lạ, mơ uứơc vô lí nhưng mục đích và ước muốn rất thực. – tâm lí sợ thời gian trôi, muốn núi kéo thời gian, muốn giữ niềm vui được tận hưởng mãi mãi sắc màu, hương vị của cuộc sống.

    – Nghệ thuật:

    + Điệp ngữ (tôi muốn) -> bộc lộ trực tiếp cái tôi cá nhân tự tin và tự tôn

    + Thể thơ: ngũ ngôn, ngắn gọn như lời giãi bày cô nén cảm xúc và ý tưởng của nghệ sĩ -> khẳng định ước muốn của tác giả

    b. 9 câu thơ tiếp

    *. 7 câu đầu

        * Niềm ngất ngây trước cảnh sắc tuyệt đpẹ của trần gian  đang bày ra trước mắt như một bữa tiệc lớn dành cho giác quan và tâm hồn. Cả một thiên đường trên mặt đất với bao nguồn hạnh phúc kì thú đang mở ra chờ đợi sự thưởng thức.

    – Hình ảnh: + Ong bướm + Đồng nội xanh rì + Cành tơ phơ phất + Yến anh, ánh sáng, thần Vui

    -> hình ảnh đẹp đẽ, tươi non, trẻ trung. Cảnh thật, cuộc sống thiên nhiên thật, quen thuộc hàng ngày nhưng qua cảm xúc của tác giả: cảnh vật và cuộc sống thần tiên thiên đường.

    – Tâm trạng: sung sướng – vội vàng -> muốn sống nhanh, sống gấp, tranh thủ thời gian. Tâm trạng đầy mâu thuẫn những vẫn thống nhất

    -> Đoạn thơ: nhịp thơ nhanh, câu thơ kéo dài mở rộng (8 chữ) tác giả đã vẽ ra bức tranh cuộc sống thần tiên chính ngay cuộc sống hiện tại qua tâm trạng yêu đời và gắn bó sâu sắc.

     * 2 câu cuối

     – Tâm trạng: sung sướng – vội vàng -> muốn sống nhanh, sống gấp, tranh thủ thời gian. Tâm trạng đầy mâu thuẫn những vẫn thống nhất

    -> Đoạn thơ: nhịp thơ nhanh, câu thơ kéo dài mở rộng (8 chữ) tác giả đã vẽ ra bức tranh cuộc sống thần tiên chính ngay cuộc sống hiện tại qua tâm trạng yêu đời và gắn bó sâu sắc.

    c. 16 câu thơ tiếp

    – Nghệ thuật: điệp từ “nghĩa là” – tạo thành câu định nghĩa giải thích để tìm ra bản chất, quy luật của cuộc sống, mang tính chất khẳng định, phát hiện như chân lí

    – Quan niệm: gắn tuổi trẻ với mùa xuân – mùa tình yêu, tác giả đưa ra quan niệm mới mẻ: thời gian, tuổi trẻ, mùa xuân của đời người thật hạn hẹp, nó chỉ đến với mỗi con người 1 lần và trôi qua rất nhanh -> tác giả nuối tiếc mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc

    – Nghệ thuật: + Kết cấu lập luận: nói làm chinếu, cònnhưng chẳng cònnên

     + Điệp từ phải chẳng – hỏi -> nối kết ý thơ, lí lẽ biện minh như đang tranh luận giãi bày về chân lí mới mẻ.

     + Hình ảnh đối lập: Lượng trời chật >< lòng tôi rộng Xuân tuần hoàn >< tuổi trẻ không trở lại. Còn trời đất >< chẳng còn tôi.

     + Điệp từ, giọng thơ u uất não nuột à tâm trạng tiếc nuối, lo sợ ngậm ngùi khi mùa xuân qua mau, tuổi trẻ chóng tàn, sự tàn phai không thể nào tránh khỏi à tâm trạng vội vàng, cuống quýt.

    d, Đaonj cuối

    – Nghệ thuật:

    + Điệp từ “ta muốn” “cho” “và”

    + Động từ: ôm riết, thâu, say, cắn: chỉ cảm xúc tình cảm mạnh

    + Các từ chỉ mức độ: chếnh choáng, đầy, no nê -> diễn tả cảm xúc ào ạt, dâng trào

    => Đoạnt thơ: lời giục giã hãy sống vội vàng, hãy ra sức tận hưởng niềm lạc thú của tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu.

    3. Đánh giá chung

     _ND: 

    _NT

    III,KB: Khẳng định lại vấn đề

    Thế Lữ đã từng nhận xét về hồn thơ Xuân Diệu rằng “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông đã không trốn tránh mà còn quyến luyến cõi đời”. Phải khẳng định rằng ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đã mang đến cho văn học Việt Nam “một cách nhìn mới,một bút pháp mới,một cảm xúc mới”. Điều này được thể hiện rất rõ qua thi phẩm ‘Vội vàng”.Nhận xét về tác phẩm, có ý kiến cho rằng “Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch triết luận sâu sắc. ”

    “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường:

    Tôi muốn tắt nắng đi
    Cho màu đừng nhạt mất
    Tôi muốn buộc gió lại
    Cho hương đừng bay đi.

    Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: tắt nắng, buộc gió. Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng. Nhịp thơ nhanh, cách điệp câu nhịp nhàng, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy.

    Bằng con mắt “xanh non biếc rờn” cùng lòng yêu cuộc sống, bằng “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:

    Của ong bướm này đây tuần tháng mật
    Này đây hoa của đồng nội xanh rì
    Này đây lá của cành tơ phơ phất
    Của yến anh này đây khúc tình si
    Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

    Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây. Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân. Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế. Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch:

    Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
    Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất

    Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi. Ta chợt ngộ ra, cái đẹp của con người trong mắt nhà văn mới là cái đẹp chuẩn mực. Chính con người mới là trung tâm cho mọi sự so sánh. Rõ ràng ở đây có cả một sự thay đổi lớn về quan niệm thẩm mỹ. Người xưa ví vẻ đẹp người con gái với hoa, núi, nước, mây, ví khí phách người anh hùng như mai, trúc, phượng, điểu. Còn Xuân Diệu trong cái nhìn của một con người hiện đại lại chỉ luôn mong muốn tôn vinh con người.
    Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh một xúc cảm khác: Lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:

    Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
    Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
    Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
    Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
    Không cho dài thời trẻ của nhân gian

    Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy. Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã:

    Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
    Em, em ơi. Tình non sắp già rồi

    Nhưng nghĩ một cách sâu hơn, thì có thể thấy tình yêu cuộc sống và nỗi ám ảnh thời gian của nhà thơ là hoàn toàn biện chứng. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, con người càng tiếc thời gian và tuổi trẻ bấy nhiêu, huống chi là Xuân Diệu – một người có khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời. Với Xuân Diệu cái đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người là mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Trôi qua những cái đó, cuộc đời chỉ còn là vô nghĩa. Nỗi ám ảnh và sự hối thúc về thời gian của nhà thơ còn cho ta một nhận thức về nhân sinh: Cuộc đời vô thủy vô chung, dòng đời trôi không đứng đợi, tuổi trẻ chẳng thắm lại lần hai và mùa xuân chẳng bao giờ quay lại. Triết lí ấy lại là một bước tiến vượt bậc trong tư tưởng của nhà thơ. Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.

    Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:

    Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
    Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
    Con gió xinh thì thào trong lá biếc
    Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi
    Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
    Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
    Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…

    Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi. Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.

    Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:

    Ta muốn ôm
    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
    Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
    Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
    Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
    Và non nước, và cây, và cỏ rạng

    Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ xưng “tôi” ở đầu bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” như nói lên một khát vọng chung cho mọi người – khát vọng hòa nhập. Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn. Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác. Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.

    Kết luận Vội vàng

    Và một lẽ tất nhiên, để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật không thể bỏ ngoài các yếu tố về hình thức nghệ thuật. Xuân Diệu “mới” không chỉ ở tư tưởng mà “mới” cả ở cách thể hiện. Thể thơ tự do với sự chuyển mạch, co duỗi linh hoạt theo cung bậc cảm xúc, các phép tương giao ảnh hưởng của thơ tượng trưng cũng sử dụng triệt để. Những câu thơ vắt dòng, từ ngữ táo bạo và hình ảnh tân kì cũng góp phần làm nên một thi phẩm “rất Xuân Diệu”.

    Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.

    0
    2021-01-06T23:30:00+00:00

    Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân viết về Xuân Diệu trong Thi nhân Việt Nam : “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Đó đúng là đặc sắc chủ yếu của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.

    Đặc sắc đó thể hiện rõ nhất ở bài Vội vàng.

    Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu diễn tả các ý muốn có vẻ kì lạ và ngông cuồng :

    Tôi muốn tắt nắng đi

    Cho màu đừng nhạt mất ;

    Tôi muốn buộc gió lại

    Cho hương đừng bay đi.

    Đó là hương và mầm của mùa xuân. Những câu thơ tiếp theo là những câu tả mùa xuân. Trước Xuân Diệu chưa có nhà thơ nào tả mùa xuân như vậy. Ý nói, lời nói về cảnh sắc và âm thanh của mùa xuân. Chú ý vị trí và cách sử dụng các từ ngữ : của, này đây,… :

    Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;

    Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;

    Này đây lá của cành tơ phơ phạt ;

    Của yến anh này đây khúc tình si ;

    Có lẽ mói nhất là mấy câu thơ sau đây :

    Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

    Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

    Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

    Dễ thấy câu thứ ba trên đây là một câu thơ táo bạo trong sự so sánh của nó, một sự so sánh thiên về cảm giác. Song chính câu thơ thứ nhất và thứ hai trên đây mói đặc sắc. Nhà thơ ví mỗi buổi sớm mùa xuân thức dậy, mở mắt ra thì đó là “ánh sáng chớp hàng mi”, “thần Vui hằng gõ cửa”. Đó là những ý thơ vừa mói mẻ vừa tươi đẹp. Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu có lặp lại hình tượng này khi nói đến tình yêu 

    Tà áo mới cũng say mùi gió nước

    Rặng mi dài xao động ánh dương vui.

    – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –

                                                                                     (Xuân đầu)

    Trong đoạn thơ trên, cảm hứng và tư tưởng chính của bài thơ tập trung ở câu thơ đặc biệt này :

    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

    Trước Xuân Diệu không lâu, Thế Lữ có bài thơ Khúc ca hoài xuân (Tiếc mùa xuân) mà khổ thơ đầu tả mùa hạ :

    Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát ;

    Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời.

    Gió nắng reo trên hồ sen rào rạt.

    Mùa xuân còn, hết ? Khách đa tình ơi !

    Xuân Diệu nói ngược, nói khác vói bài thơ của Thế Lữ và nhà thơ giải thích :

    Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

    Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

    Xuân tàn, hạ tới, thu hết, đông sang, xưa nay thơ đã nói nhiều ý đó. Thế Lữ cũng chưa nói khác, dù lời thơ mới mẻ, phong phú, sôi động hơn. Song đến Xuân Diệu mói thấy được “phép biện chứng” của mùa xuân : cùng một lúc nhà thơ thấy xuân đương tới và xuân đương qua, xuân còn non và xuân sẽ già.

    Cảm hứng về thời gian của Xuân Diệu mới mẻ đã đổi khác, “hiện đại” hơn.

    Cảm hứng về thời gian đó dẫn đến cảm hứng về cuộc đời. Nhiều nhà thơ trước đây đều đã thấy sự ngắn ngủi của đời người. Cái mới của Xuân Diệu là còn thấy sự ngắn ngủi của tuổi trẻ :

    Lòng tôi rộng, nhung lượng trời cứ chật,

    Không cho dài thời trẻ của nhân gian…

    Từ đó, nhà thơ tiếc mùa xuân, tuổi trẻ ngay đang giữa mùa xuân, tuổi trẻ :

    Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

    Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

    Tiếc mùa xuân, tiếc tuổi trẻ cũng là tiếc sự sống, tiếc cuộc sống. Đó tức cũng là lòng yêu đời, lòng ham sống. Xuân Diệu diễn tả rất sâu, rất hay, rất mãnh liệt và thiết tha tình cảm đó bằng những âm thanh, màu sắc, hình thể của mùa xuân :

    Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

    Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?

    Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

    Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?

    Đó là những câu thơ rất trẻ, rất đẹp, thể hiện cao độ tình yêu đòi, ham sống của nhà thơ. Nhà thơ còn dùng hình tượng: đất trời, năm tháng, núi sông để làm cho ý thơ thêm rộng lớn :

    Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

    Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

    Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

    Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

    Bước đi của thời gian tuy âm thầm mà mãnh liệt không gì ngăn được ! Trước và sau Xuân Diệu, chưa ai diễn tả được cảm hứng này như Xuân Diệu.

    Cảm nhận về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ, về cuộc đời như trên dẫn nhà thơ đến một thái độ sống đặc biệt. Đó là sự “vội vàng”:

    Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

    Ta muốn ôm

    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

    – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

    Lại những câu thơ vừa cực tả vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân, vừa cực tả lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, say mê của nhà thơ. Để diễn tả những điều đó, nhà thơ dùng những từ ngữ, hình tượng thiên về cảm giác và hành động : ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều, cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê,… và cuối cùng : ta muốn cắn… Tuy vậy, cần thấy rằng nhà thơ rất biết giới hạn niềm say mê nồng nhiệt của mình, không để rơi vào sự rồ dại, thác loạn.

    Đúng như lời Hoài Thanh nhận xét: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết.”. Thơ Xuân Diệu sống động như chính sự sống. Qua thơ Xuân Diệu, ta cũng thấy rõ sức sống của tiếng nói Việt Nam, câu thơ Việt Nam, có thể diễn tả được mọi cung bậc của cuộc đời, mọi trạng thái tình cảm của con người, từ tĩnh lặng nhất đến sôi nổi nhất.

    Đã có những lúc, đã có những người quá khắt khe với thơ Xuân Diệu, cho rằng những bài thơ như Vội vàng trên đây khuyến khích lối “sống vội”, “sống gấp”, cổ vũ cho thứ nhân sinh quan hưởng thụ, dẫn thanh niên vào con đường hư hỏng. Phải nói rằng, nếu cảm hiểu không đúng thì bài thơ cũng có chứa đựng nguy cơ đó. Nó là con dao sắc hai lưỡi, có thể giúp người mà cũng có thể hại ngươi. Tuy nhiên, lại phải nói rằng, đây là một bài thơ ưu tú của một nhà thơ ưu tú ; tác dụng tích cực của bài thơ là chính. Thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, không thể đòi hỏi bài thơ phải là bài giảng về đạo đức. Song một bài thơ như bài Vội vàng không phải phi đạo đức mà có đạo đức. Nếu được cảm hiểu đúng đắn và sáng tạo, nó giúp cho con người biết yêu sự sống, yêu cuộc đời, yêu quý tuổi trẻ “chẳng hai lần thắm lại”. Với một ý thức và tình cảm như vậy, mọi con người có tâm hồn và tư tưởng lành mạnh sẽ biết tận hưởng hạnh phúc riêng chân chính của tuổi trẻ, của cuộc đời, đồng thời lại biết đem tuổi trẻ của mình xây dựng hạnh phúc chung tốt đẹp cho cuộc đời, cho mọi người, không lãng phí ngày xuân, tuổi trẻ một cách vô ích để rồi hối tiếc…

    0
    2021-01-06T23:30:05+00:00

    Để tìm câu trả lời chính xác các em hãy tham khảo vội vàng thơ các nguồn hoc24.vn, lazi.vn, hoidap247.com để thầy cô và các chuyên gia hỗ trợ các em nhé!

Leave an answer

Browse

Giải phương trình 1 ẩn: x + 2 - 2(x + 1) = -x . Hỏi x = ? ( )