Quê hương là chùm khế ngọtCho con trèo hái mỗi ngàyQuê hương là con đò nhỏÊm đềm khua nước ven sông” Quê hương – hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương, dạt dào! Trong mỗi con người chRead more
Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông”
Quê hương – hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương, dạt dào! Trong mỗi con người chúng ta ai cũng ẩn sâu cho mình hình ảnh nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi luôn chan chứa tình yêu thương. Có lẽ cảm xúc về quê hương là những cảm xúc cao đẹp nhất. Và thoáng chút bâng khuâng khi chiều nay tiết văn cô giáo vừa giảng bài “Quê hương” của Tế Hanh – quê hương của tác giả thật đẹp, thật bình dị! Tế Hanh sinh ra ở một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, cả tuổi thơ của ông gắn liền với nắng gió, với hơi thở của biển. Có lẽ hồn biển đã thấm sâu vào tim để rồi làm nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Tế Hanh viết nên những vần thơ về quê hương, về những con người miền biển chân chất, thật thà. “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới: Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông” Hai câu mở đầu như gợi lên hình ảnh một làng chài nhỏ nằm ngay sát biển. Họ mưu sinh bằng nghề đánh bắt, bằng những chuyến tàu đi về hằng ngày trên biển. Cụm từ “Làng tôi” như một tiếng gọi thân thương trìu mến của một người con xa quê bỗng cất lên nỗi nhớ da diết. Câu thơ ngắn gọn nhưng gợi tả được bức tranh về một làng chài ven biển bình dị, thân quen… Ở nơi đó có những con người sinh ra từ biển, lớn lên từ biển. Mỗi sớm mai thức dậy, khi bầu trời trong xanh, biển im ắng họ lại “bơi thuyền đi đánh cá”. Những chàng trai làm nghề của biển họ mạnh mẽ, họ khỏe khoắn với “làn da ngăm rám nắng” ngày ngày đối mặt với sóng to gió lớn, lênh đênh hàng tháng liền trên biển mênh mông: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” Họ trở về từ biển, họ mang hơi thở của biển. “Vị xa xăm” – không chỉ là vị của biển mà còn là hương vị của những vùng đất họ đã đi qua, là vị mặn của những giọt mồ hôi, của tình yêu quê hương. Người ta nói, dân biển họ đậm tình đậm nghĩa lắm, đậm như chính nơi biển lớn họ sinh ra. Dù đi đâu lòng họ vẫn hướng về quê hương, về nơi xóm chài nghèo e ấp khi bão về… Cuộc sống của những con người vùng biển quanh năm gắn liền với những con thuyền mộc mạc. Có những gia đình gần như sinh sống trên không gian nhỏ bé của thuyền. Chiếc thuyền là nơi sinh hoạt, là mưu sinh, là sự sống của họ. Trong kí ức của Tế Hanh những chiếc thuyền như chính linh hồn làng, con thuyền trong thơ ông hiện lên như một dũng sĩ xông pha nơi chiến trường:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Tác giả đã so sánh hình ảnh chiếc thuyền như một con ngựa đẹp, khỏe và phi nhanh. Động từ mạnh được sử dụng liên tục như càng tô đậm hơn sự dũng mãnh của chiếc thuyền chài “phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang” – ta tưởng như con thuyền rẽ mọi con sóng, vượt mọi ngọn gió, oai hùng tiến về phía trước không một chút nao núng. Con thuyền ấy sở dĩ hiên ngang như vậy bởi được bao bọc bởi cánh buồm trắng – cánh buồm như mang theo cả hồn của làng chài nghèo, của những người thân đang ngóng trông họ nơi quê nhà. Một cánh buồm đơn sơ được Tế Hanh thổi hồn nay bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Mỗi ngày trên biển, nhìn cánh buồm tung bay trong gió những người dân chài như thấy thấp thoáng hình bóng quê hương, thấp thoáng bóng người vợ, người mẹ già ngày đêm đứng chờ ở bãi biển… Hàng tháng trời ở biển, đâu chỉ con người biết mỏi biết mệt, những chiếc thuyền cũng thấm mệt, lui dần về bến, lim dim ngủ:
“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
Tế Hanh đã tinh tế khi sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong hai câu thơ trên. Nếu từ “nghe” là từ chỉ hoạt động của thính giác thì “thấm” là cảm nhận của xúc giác. Bằng nghệ thuật ấy, tác giả đã vẽ nên hình ảnh chiếc thuyền trở về nằm im mệt mỏi nhưng dường như từng “thớ vỏ” bên trong. Con thuyền nằm đó, im lặng nhưng vẫn dạt dào nguồn sống. Ta dường như thấy được nhà thơ đang hóa thân vào hình ảnh con thuyền để bày tỏ nỗi lòng, để lặng ngắm không khí vui tươi ngày trở về…
“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về “Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe, Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”
Đối với những con người làm nghề đi biển, họ mong lắm ngày được trở về. Những người mẹ, người vợ càng háo hức mong đợi nhiều hơn. Ấy thế nên khi ghe vừa đến bến cả mỗi vùng xôn xao náo nhiệt. “Ồn ào” , “tấp nập” – những từ láy gợi tả khung cảnh đông vui, náo nức được nhà thơ sử dụng như càng làm bừng lên không khí vui mừng nơi xóm nghèo. Họ nô nức đón ghe về, họ vui mừng khi “cá đầy ghe”. Những con người chân chất ấy họ sung sướng nhưng vẫn không quên gửi lời cảm ơn chân thành đến thần linh – “nhờ ơn trời biển lặng”… đã mang những con thuyền chở người thân của họ trở về trong bình yên. Tất cả những hình ảnh trên chỉ còn lại trong kí ức của tác giả bởi ông đang ở nơi xa, đang từng ngày mong nhớ quê hương nơi đất khách:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi, Thoáng con thuyền sẽ sóng chạy ra khơi”
Mọi thứ dường như đã rất quen thuộc, dường như đã ăn sâu nơi tiềm thức của nhà thơ. Bài thơ da diết, sâu lắng tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của những người làng chài sao mà chân thật, sống sộng đến thế? Phải chăng đây chính là nỗi niềm từ chính tâm tư của những con người xa quê… Để rồi Tế Hanh đã phải thốt lên: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” Vâng, dù đi đâu, đi thật nhiều nơi nhưng cái hương vị quê nhà, mùi của đất, của biển, của tình người vẫn mãi thấm đượm trong tác giả. Là cả một ước mong ngày trở về…Vần thơ bình dị mà gợi cảm, hình ảnh đơn giản mà sâu sắc, giọng văn nghẹn ngào cảm xúc – “Quê hương” như môt khúc nhạc nhớ thương quê hương trong sáng, da diết của nhà thơ! Quê hương – hai tiếng ấy sao mà thân thương! Mỗi lần thốt lên hay nghĩ về đều rất thiêng liêng:
“Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nỗi thành người”
NgoàiCảm nhận về bài thơ Quê hương, để học tốt hơn các em cần tìm hiểu thêm các bài viết khác nhưTìm hiểu tâm hồn Tế Hanh qua bài thơ Quê hươngcũng nhưHình ảnh người dân làng chài qua bài thơ Quê hươngnằm trong phần soạn bài Ngữ Văn lớp 8.
“ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu tràng pháo bánh trưng xanh. ” Đó là những nét đẹp văn hóa truyền thống của Tết Việt, mang lại sự ấm cúng, thân thiết cho những người trong gia đình xum vầy bên nhau. Góp phần không nhỏ vào đó là màu sắc tươi thắm, tràn đầy sức sống của các loại thảo mộc, muôn hoa mùa xuân, đặc biệt là hoa đào. Hoa đào trở nên không thể thiếu đối với mỗi cái Tết của gia đình em. Vì vậy, ngày 27 Tết, bố con em đã lên chợ hoa Đông Anh để mua đào. Bố bảo, năm nay cả nhà sẽ mua đào thế đẻ bày cho đẹp. Vào đến chợ, 1 rừng hoa Tết muôn màu hiện ra trước mắt với đủ các loại hồng, cúc, huệ, … nhiều nhất là đào. Đào có rất nhiều loại: đào bích, đào phai, đào bạch… được đưa từ Nhật Tân, Sơn La… về. Những cây đào Nhật Tân với đủ các loại thế khác nhau trông thật đẹp, khác hẳn với những cành đào Sơn La chịu nắng gió ở rừng núi nên rất cao, có thể tới 3m. Chao ôi! Thật là đẹp! Những nụ hoa màu xanh non, nhìn kỹ mới thấy những đốm hồng li ti ở đầu. Những nụ hoa này mang 1 trọng trách lớn lao: che chở, ôm ấp những cánh hoa mỏng manh còn đang e ấp chờ đợi đến lúc có thể bừng nở rực rỡ. Em rất mong mỏi tới ngày được nhìn thấy những bông hoa đào nở đỏ thắm, màu đỏ của sự may mắn. Sáng 30, thật kỳ diệu: những bông hoa đỏ thắm đua nở rộ như vừa tỉnh sau 1 giấc ngủ dài. Những bông hoa đào chỉ nhỉnh hơn chiếc cúc áo 1 chút. Cánh hoa dạng tròn, xinh xắn như nụ cười của em bé, từng cánh hoa mỏng manh ôm lấy nhau, nương tựa vào nhau mà sống như không thể tách rời. Nhị hoa như những sợi tơ vàng óng, màu vàng của tài lộc, phú quý, làm đậm thêm sắc hoa đỏ thắm. Hoa mọc sát vào nhau tưỏng như thành từng chùm, dệt nên tấm thảm mùa xuân phủ trên từng cành cây. Tô điểm cho tấm thảm đó là những chiếc lá. Lá tuy rất ít, dài và xanh non tơ nhưng có thể làm cho tấm thảm bắt mắt hơn. Muốn có hoa đẹp lá xanh phải thầm cảm ơn thân và cành. Mới ban đầu chưa ra hoa, chúng chỉ mang bộ đồ giản dị, thô kệch màu nâu khó chiếm được cảm tình. Ai mà biết được bên trong đó ẩn chứa 1 tình mẫu tử bao la. Suốt mùa đông, thân là người mẹ nhẫn nại, chắt chiu từng ít 1 để nuôi hoa, lá hãy còn bé thơ để rồi khi xuân về bừng nở rực rỡ cùng với 1 sức sống tràn trề. Những ngày Tết, ngắm cây đào, em thầm cảm phục sự tinh tường của bố. Nhưng thời gian không đợi những bông hoa, thời gian đã mang chị xuân đi mất rồi. Mùa hoa đã qua đi, cành cây chỉ còn lại lá và vài bông nở muộn. Tửng chừng hoa đào rụng đã mang đi sức sống của mùa xuân đọng lại trên dải lụa hồng toàn hoa rụng kín gốc cây. Hoa rụng đi nhưng vẫn muốn cất mình bay trở lại bên mẹ yêu, tiếc nuối những ngày tháng được mẹ chăm chút, còn muốn níu kéo chị xuân lại. Dường như chúng đã biết là không thể, quy luật luôn luôn vậy thôi. Ra đi, chúng chỉ muốn nhắn lại rằng bên trong thân mẹ gầy guộc ấy vẫn rạo rực 1 sức sống. Nhất định mẹ sẽ cho 1 mùa hoa mới, lũ đàn em mới xinh đẹp, khỏe khoắn mang niềm vui đến cho mọi người. Còn bây giờ, tâm hồn, những cáh hoa đã bay theo gió đi khắp nơi, ngao du sơn thủy và rồi sẽ ở lại nơi đâu không biết. Không như hoa mai mang đến sắc vàng cho người phương Nam, hoa đào từ lâu đã là biểu tượng của Tết Bắc Việt. Màu sắc đỏ thắm của hoa đào đã tô điểm cho mùa xuân, từng dãy phố con đường, từng ngõ nhỏ làng quê, xua tan cái rét của Bắc Việt và mang đén niềm vui, may mắn trong 1 năm mới an khang, thịnh vượng.
A. Lập Dàn Ý 1. Mở bài - Tục ngữ là lời khuyên dạy của cha ông ta từ xưa - Trong đó có câu "Có công mài sắt, có ngày nên kim" khuyên ta phải biết bền chí bền lòng thì mới thRead more
A. Lập Dàn Ý
1. Mở bài
– Tục ngữ là lời khuyên dạy của cha ông ta từ xưa
– Trong đó có câu “Có công mài sắt, có ngày nên kim” khuyên ta phải biết bền chí bền lòng thì mới thực hiện được mục đích, nguyện vọng của mình.
2. Thân bài
– Giải thích câu tục ngữ:
+ “Sắt”: Vốn là những vật to lớn, bề ngoài sần sùi, không sáng bóng,đẹp đẽ, lại vô cùng cứng rắn.
+ “Kim”: Chỉ những vật vô cùng nhỏ bé, nhẵn nhụi, bề mặt sáng,hữu dụng trong cuộc sống như dùng để may vá quần áo.
+ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”: Tức là có quyết tâm, kiên nhẫn, miệt mài, ngày qua ngày mài mòn thanh sắt lớn để tạo nên thành quả là chiếc kim bé nhỏ, đẹp đẽ được tôi rèn từ một thanh sắt lớn, xấu xí.
– Nghĩa bóng:
+ “Sắt”: Tức là khó khăn, những thử thách trên con đường đạt tới mơ ước và những điều mình mong muốn. Nó cũng là những công việc nhỏ cần thiết để góp phần tạo nên thành quả xứng đáng.
+ “Kim”: Tức là thành quả sau một quá trình kiên trì, nhẫn nại thực hiện mọi thử thách và khó khăn. Nó cũng là ý nghĩa của sự luyện tập, của lòng quyết tâm bền bỉ.
+ ” Có công mài sắt, có ngày nên kim”: Là lời khuyên nhủ chúng ta phải biết cố gắng, nỗ lực, kiên trì thì sẽ được hưởng thành quả xứng đáng, đạt được ước mơ cũng như mong ước của mình. Muốn đạt được ước mơ thì phải luôn biết nỗ lực không ngừng nghỉ, phải luôn quyết tâm thực hiện tới cùng.
– Ý nghĩa của câu tục ngữ: Câu tục ngữ trên muốn khuyên nhủ chúng ta khi làm bất cứ việc gì cũng đều cần có lòng kiên trì cũng như sự quyết tâm để thực hiện. Có sự kiên trì thì dù là việc gì cũng có thể đạt được thành công như mong muốn.
– Dẫn chứng:
+ Edison sáng tạp ra bóng đèn điện với hơn hai nghìn lần thử nghiệm.
+ Hồ Chí Minh là một điển hình cho sự cố gắng, kiền trì để tạo nên thành công. Người đã bôn ba gần nửa đời người ở nơi xứ người, mong tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Cuối cùng, sau bao nỗ lực, cũng như quyết tâm sắt đá, Người đã tìm ra phương hướng, ra con đường đưa dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ, trở thành một đất nước độc lập.
+ Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thấy tấm gương thầy Nguyễn Ngọc Ký. Thầy giờ đây là một giảng viên đứng trên bục giảng. Nhưng để thực hiện được điều đó, thầy đã phải quyết tâm rèn luyện đôi chân mình để đôi chân có thể thay thế đôi tay học được những con chữ.
– Liên hệ thực tế:
+ Những bạn học sinh biết quyết tâm vươn lên, biết kiên trì học hỏi thường trở thành những đứa con ngoan, trò giỏi.
+ Mỗi người trong xã hội phải luôn có được sự quyết tâm, kiên trì trong học tập, công việc thì mới đạt được thành quả xứng đáng. Nếu không có được sự bền lòng, vững chí, dễ nản lòng thì làm việc gì cũng khó khăn. Như Bác Hồ đã dạy ” Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp bể/ Có chí ắt làm nên”.
3. Kết bài:
– Khẳng định lại ý nghĩa của câu tục ngữ đối với mọi thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ.
– Cần làm gì để xứng đáng với lời dạy của cha ông ta.
B. Bài Viết
Ngày xưa có một cậu bé bắt gặp một bà cụ đang ngồi mài một thanh sắt bên bờ sông. Cậu bé liền hỏi bà mài thanh sắt lớn thế kia để làm gì. Bà cụ liền mỉm cười trả lời rằng bà đang mài thanh sắt này thành một chiếc kim để may vá. Đây có lẽ chính là khởi nguồn của câu tục ngữ ” Có công mài sắt, có ngày nên kim” mà ông cha ta để lại. Câu tục ngữ muốn khuyên chúng ta phải có lòng kiên trì, bền chí để thực hiện quyết tâm của mình.
Tục ngữ vốn là kho tàng những lời khuyên dạy bổ ích mà ông cha ta để lại cho thế hệ con cháu. Mỗi câu tục ngữ chính là mỗi là khuyên răn để con cháu noi theo và tu dưỡng. Trong kho tàng đó, ta không thể không quen thuộc với các câu tục ngữ như “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, ” Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, hay ” Ăn cây nào rào cây nấy”, … Nhưng nói về sự quyết tâm, lòng kiên trì thì ông cha ta thường khuyên chúng ta rằng: “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Tại sao cha ông ta lại sử dụng hai hình ảnh “sắt”, “kim” để làm hình ảnh ẩn dụ, hàm ý cho con cháu mình? Bởi vì “sắt” thường là những thanh sắt lớn dài, bề ngoài sần sùi, xấu xí và lại vô cùng cứng rắn. Còn “kim” lại là một vật vô cùng nhỏ bé, sáng bóng, nhẵn nhụi, dùng để may vá quần áo. Người ta thường ví von “Mò kim đáy bể” để nói lên một sự vật sự việc không bao giờ có thể tìm thấy được. Chính vì vậy, ông cha ta mới dùng hình ảnh chiếc kim nhỏ bế kia đối lập với hình ảnh khối sắt to lớn. Để mài ra chiếc kim bé tẹo kia từ một khối sắt, thanh sắt dài thì mất bao nhiêu thời gian cơ chứ? Thật khiến cho người khác nản lòng và nói không bao giờ có thể thực hiện được. Thế nhưng, nếu chúng ta biết cố gắng, biết nỗ lực kiên trì, thì chắc chắn một ngày nào đó, chúng ta sẽ mài được chiếc kim nhỏ bé, sáng đẹp từ một khối sắt xấu xí.
Qua hình ảnh sắt và kim, ông bà ta muốn gửi gắm tới thế hệ con cháu mình những lời khuyên răn tốt đẹp. “Sắt” chính những thử thách, những khó khăn trong cuộc sống, trong công việc, học tập mà chúng ta gặp phải trên con đường thực hiện lý tưởng, cũng như mơ ước nguyện vọng của mình. Còn “kim” chính là kết quả, là ước mơ, nguyện vọng của mình, điều mà mình cần đạt tới, mong muốn đạt tới trong cuộc sống. “Có công mài sắt có ngày nên kim” muốn khuyên răn chúng ta khi làm bất cứ việc gì cũng nên đặt vào đó sự quyết tâm cũng như lòng kiên trì thì ta mới đạt được thành công như ý nguyện
Mỗi chúng ta khi làm bất cứ việc gì cũng điều nên đặt vào trong đó sự kiên trì và lòng quyết tâm thực hiện. Chỉ khi có lòng quyết tâm và kiên trì đó thì bất cứ khó khăn nào ta cũng có thể vượt qua để đạt được thành công như mong muốn. Đó là hàm ý mà ông bà ta muốn khuyên chúng ta qua câu tục ngữ trên. Nếu biết cố gắng, có sự bền bỉ ý chí thì nhất định thành công nào cũng sẽ đến với mỗi chúng ta. Trong cuộc sống, có rất nhiều khó khăn và thử thách cần chúng ta phải vượt qua, nếu không có ý chí để vượt qua thì ta không thể thành công. Hơn nữa, dù gặp thất bại hay thử thách, ta cũng cần có lòng quyết tâm thực hiện lại, chắc chắn cuối cũng chúng ta sẽ có được thành quả như ý.
Từ xưa tới nay, chúng ta đã biết tới bao con người đã dùng ý chí và lòng kiên trì của mình để tạo nên thành công. Chúng ta biết tới bóng đèn điện với dây tóc bóng đèn từ sợi Vonfram giúp thắp sáng. Nhưng các bạn có biết để có được thành quả đó, Thomas Edison đã mất hơn hai nghìn lần thử qua thử lại với các vật liệu khác nhau với tìm ra được sợi dây đốt tốt nhất. Thế mới hiểu, để có được thành công, để làm được ước nguyện của mình, Edison đã phải trải qua bao khó khăn tới nhường nào? Hai nghìn lần với bạn, bạn có dám thử làm hay không? Bạn biết tới Hồ Chí Minh, người vĩ nhân vĩ đại nhất của Việt Nam, người đã tìm ra con đường cứu nước, giúp dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ. Nhưng bạn có biết, để tìm ra chân lý sáng tỏ đời mình cũng như phương hướng giúp dân tộc, Người đã phải bôn ba nửa đời người ở nơi xứ người, làm lao công quét dọn tuyết, mọi công việc cực khổ. Nếu không có ý chí, lòng kiên trì, mong ước khát khao cháy bỏng, lòng quyết tâm sắt đá, bạn nghĩ liệu Người có thể trở thành một vĩ nhân cao lớn tới nhường ấy không? Hay chúng ta cũng biết tới người thầy giáo khuyết tật Nguyễn Ngọc Ký. Hiện thầy đang là giảng viên của một trường học. Nhưng có mấy ai biết tới một Nguyễn Ngọc Ký kiên cường dùng bàn chân thay thế bàn tay học lấy những con chữ. Khó khăn và thử thách đã được thầy vượt qua để tới nay trở thành một người khiến bao người khâm phục. Nếu không có lòng kiên trì, bền bỉ ý chí sắt đá nung nấu, liệu thầy có làm nên được kì tích khiến bao người phải khâm phục hay không?
Biết bao tấm gương trong cuộc sống mà chúng ta chứng kiến đều minh chứng cho câu tục ngữ của cha ông ” Có công mài sắt có ngày nên kim” là vô cùng đúng đắn. Ngày nay, bao thế hệ học sinh vẫn đang miệt mài, kiên trì, dùng quyết tâm của mình cố gắng hàng ngày hàng giờ để trở thành một học sinh ngoan giỏi để có thể cống hiến cho đất nước. Mỗi chúng ta đều phải thấm nhuần lời khuyên của cha ông ta. Bởi vì trong cuộc sống có rất nhiều khó khăn đang chờ ta bước tới, hãy luôn kiên tâm, bền bỉ thì nhất định chúng ta sẽ được hưởng thành quả mà chúng ta mong đợi như Hồ Chí Minh cũng đã viết:
” Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp bể
Quyết chí ắt làm nên”
Lời khuyên của cha ông ta “Có công mài sắt có ngày nên kim” mãi thấm nhuần trong tư tưởng của mỗi người. Phải luôn biết bền chí bền lòng, giữ vững lý tưởng thì nhất định chúng ta sẽ có được thành công như mong muốn. Là một người học sinh, chúng ta hãy biết phấn đấu học hành, chăm ngoan, quyết tâm, kiên trì bền bỉ, chúng ta nhất định sẽ trở thành những con người tài giỏi giúp ích cho đất nước mai sau.
Đáp án: A ,24*36' Giải thích các bước giải: a,d1:x-2y-1=0 có VTPT n1(1,-2) d2:x+3y-11=0 có VTPT n2(1,3) cos(d1,d2)=|1.1-2.3|/ {[căn (1^2+(-2)^2)].[căn (1^2+3^2)]}=(căn2)/2 =>(d1,d2)=50 b,d1:2x-y+5=0 có VTPT n1(2,-1) d2:3x+yRead more
Xét về cấu tạo thì từ ghép là từ bao gồm từ hai tiếng trở lên. Xét về mặt ngữ nghĩa thì từ các tiếng cấu tạo nên từ ghép phải tạo thành một từ có nghĩa. Từ định nghĩa trên người ta phân từ ghép thành hai loại đó là từ ghép chính phụ và từ ghép đẳng lập
Xét về cấu tạo thì từ ghép là từ bao gồm từ hai tiếng trở lên. Xét về mặt ngữ nghĩa thì từ các tiếng cấu tạo nên từ ghép phải tạo thành một từ có nghĩa. Từ định nghĩa trên người ta phân từ ghép thành hai loại đó là từ ghép chính phụ và từ ghép đẳng lập
Để tìm câu trả lời chính xác các em hãy tham khảo phân tích phú sông bạch đằng các nguồn hoc24.vn, lazi.vn, hoidap247.com để thầy cô và các chuyên gia hỗ trợ các em nhé!
Để tìm câu trả lời chính xác các em hãy tham khảo phân tích phú sông bạch đằng các nguồn hoc24.vn, lazi.vn, hoidap247.com để thầy cô và các chuyên gia hỗ trợ các em nhé!
Đáp án: Câu 1: Quần xã sinh vật là tập hợp nhiều quần thể sinh vật thuộc các loài khác nhau, cùng sống trong một khoảng không gian xác định. Các sinh vật trong quần xã có mối quan hệ gắn bó nRead more
Đáp án:
Câu 1: Quần xã sinh vật là tập hợp nhiều quần thể sinh vật thuộc các loài khác nhau, cùng sống trong một khoảng không gian xác định. Các sinh vật trong quần xã có mối quan hệ gắn bó như một thể thống nhất và do vậy, quần xã có cấu trúc tương đối ổn định. Các sinh vật trong quần xã thích nghi với môi trường sống của chúng.
Quần thể Quần xã
Đơn vị cấu trúc: Cá thể Quần thể
Số lượng loài: Chỉ một loài Gồm nhiều loài
Chức năng dinh Là một mắt xích trong Tạo lưới thức ăn với nhiều chuỗi thức ăn, nhiều dưỡng: | chuỗi thức ăn mắt xích thức ăn, đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái.
Cơ chế đảm bảo Cơ chế điều hòa mật độ Khống chế sinh học
sự cân bằng học: cá thể
Câu 2: Lưới thức ăn là tập hợp các chuỗi thức ăn, trong đó mọt loài tham gia đồng thời vào nhiều chuỗi thức ăn khác nhau.
*Các thành phần chủ yếu trong lưới thức ăn sau là:
-Sinh vật sản xuất: cây gỗ, cây cỏ.
-Sinh vật tiêu thụ: đại bàng, cầy, hổ, rắn, hươu, bọ ngựa, chuột, sâu ăn lá cây.
+Sinh vật tiêu thụ cấp 1:sâu ăn lá, chuột, hươu.
+———————– 2: bọ ngựa, cầy, rắn.
+———————– 3: rắn, đại bàng, hổ.
-Sinh vật phân giải: nấm địa y, vi sinh vật, giun đất.
Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng.*Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, Huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh).* Hoạt động trên địa bàn rộng gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.* Diễn biến: HRead more
Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng. *Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, Huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). * Hoạt động trên địa bàn rộng gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. * Diễn biến: Hai giai đoạn _ Từ năm 1885-1888: nghĩa quân lo tổ chức, huấn luyện, xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí và tích trữ lương thảo. _ Từ năm 1888 đến 1895: là thời kì chiến đấu của nghĩa quân . Dựa vào vùng rừng núi hiểm trở, có sự chỉ huy thống nhất, nghĩa quân đã đẩy lui nhiều cuộc hành quân và càn quét của giặc. + Để đối phó Pháp tập trung binh lực và xây dựng 1 hệ thống đồn, bốt nhằm bao vây , cô lập nghĩa quân. Đồng thời chúng mở nhiều cuộc tấ công quy mô vào Ngàn Trươi. + Nghĩa quân phải chiến đấu trong điều kiện ngày càng gian khổ hơn, lực lượng suy yếu dần. + Sau khi chủ tướng Phan Đình Phùng hi sinh, cuộc khởi nghĩa được duy trì thêm một thời gian dài rồi tan rã. * Kết quả: Cuộc khởi nghĩa thất bại.
Vì cuộc khởi nghĩa Hương Khuê có quy mô lớn nhất, lực lượng đông đảo nhất , được toàn dân ủng hộ và kề vai sát cánh đấu tranh
Phân tích những nét đặc sắc về nghệ thuật (phương thức biểu đạt, ngòi bút miêu tả, sự sáng tạo hình ảnh thơ) trong bài thơ “Quê hương” của tác giả Tế
MichaelMet
Quê hương là chùm khế ngọtCho con trèo hái mỗi ngàyQuê hương là con đò nhỏÊm đềm khua nước ven sông” Quê hương – hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương, dạt dào! Trong mỗi con người chRead more
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông”
Quê hương – hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương, dạt dào! Trong mỗi con người chúng ta ai cũng ẩn sâu cho mình hình ảnh nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi luôn chan chứa tình yêu thương. Có lẽ cảm xúc về quê hương là những cảm xúc cao đẹp nhất. Và thoáng chút bâng khuâng khi chiều nay tiết văn cô giáo vừa giảng bài “Quê hương” của Tế Hanh – quê hương của tác giả thật đẹp, thật bình dị!
Tế Hanh sinh ra ở một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, cả tuổi thơ của ông gắn liền với nắng gió, với hơi thở của biển. Có lẽ hồn biển đã thấm sâu vào tim để rồi làm nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Tế Hanh viết nên những vần thơ về quê hương, về những con người miền biển chân chất, thật thà.
“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”
Hai câu mở đầu như gợi lên hình ảnh một làng chài nhỏ nằm ngay sát biển. Họ mưu sinh bằng nghề đánh bắt, bằng những chuyến tàu đi về hằng ngày trên biển. Cụm từ “Làng tôi” như một tiếng gọi thân thương trìu mến của một người con xa quê bỗng cất lên nỗi nhớ da diết. Câu thơ ngắn gọn nhưng gợi tả được bức tranh về một làng chài ven biển bình dị, thân quen…
Ở nơi đó có những con người sinh ra từ biển, lớn lên từ biển. Mỗi sớm mai thức dậy, khi bầu trời trong xanh, biển im ắng họ lại “bơi thuyền đi đánh cá”. Những chàng trai làm nghề của biển họ mạnh mẽ, họ khỏe khoắn với “làn da ngăm rám nắng” ngày ngày đối mặt với sóng to gió lớn, lênh đênh hàng tháng liền trên biển mênh mông:
“Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”
Họ trở về từ biển, họ mang hơi thở của biển. “Vị xa xăm” – không chỉ là vị của biển mà còn là hương vị của những vùng đất họ đã đi qua, là vị mặn của những giọt mồ hôi, của tình yêu quê hương. Người ta nói, dân biển họ đậm tình đậm nghĩa lắm, đậm như chính nơi biển lớn họ sinh ra. Dù đi đâu lòng họ vẫn hướng về quê hương, về nơi xóm chài nghèo e ấp khi bão về…
Cuộc sống của những con người vùng biển quanh năm gắn liền với những con thuyền mộc mạc. Có những gia đình gần như sinh sống trên không gian nhỏ bé của thuyền. Chiếc thuyền là nơi sinh hoạt, là mưu sinh, là sự sống của họ. Trong kí ức của Tế Hanh những chiếc thuyền như chính linh hồn làng, con thuyền trong thơ ông hiện lên như một dũng sĩ xông pha nơi chiến trường:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Tác giả đã so sánh hình ảnh chiếc thuyền như một con ngựa đẹp, khỏe và phi nhanh. Động từ mạnh được sử dụng liên tục như càng tô đậm hơn sự dũng mãnh của chiếc thuyền chài “phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang” – ta tưởng như con thuyền rẽ mọi con sóng, vượt mọi ngọn gió, oai hùng tiến về phía trước không một chút nao núng. Con thuyền ấy sở dĩ hiên ngang như vậy bởi được bao bọc bởi cánh buồm trắng – cánh buồm như mang theo cả hồn của làng chài nghèo, của những người thân đang ngóng trông họ nơi quê nhà. Một cánh buồm đơn sơ được Tế Hanh thổi hồn nay bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Mỗi ngày trên biển, nhìn cánh buồm tung bay trong gió những người dân chài như thấy thấp thoáng hình bóng quê hương, thấp thoáng bóng người vợ, người mẹ già ngày đêm đứng chờ ở bãi biển…
Hàng tháng trời ở biển, đâu chỉ con người biết mỏi biết mệt, những chiếc thuyền cũng thấm mệt, lui dần về bến, lim dim ngủ:
“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
Tế Hanh đã tinh tế khi sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong hai câu thơ trên. Nếu từ “nghe” là từ chỉ hoạt động của thính giác thì “thấm” là cảm nhận của xúc giác. Bằng nghệ thuật ấy, tác giả đã vẽ nên hình ảnh chiếc thuyền trở về nằm im mệt mỏi nhưng dường như từng “thớ vỏ” bên trong. Con thuyền nằm đó, im lặng nhưng vẫn dạt dào nguồn sống. Ta dường như thấy được nhà thơ đang hóa thân vào hình ảnh con thuyền để bày tỏ nỗi lòng, để lặng ngắm không khí vui tươi ngày trở về…
“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”
Đối với những con người làm nghề đi biển, họ mong lắm ngày được trở về. Những người mẹ, người vợ càng háo hức mong đợi nhiều hơn. Ấy thế nên khi ghe vừa đến bến cả mỗi vùng xôn xao náo nhiệt. “Ồn ào” , “tấp nập” – những từ láy gợi tả khung cảnh đông vui, náo nức được nhà thơ sử dụng như càng làm bừng lên không khí vui mừng nơi xóm nghèo. Họ nô nức đón ghe về, họ vui mừng khi “cá đầy ghe”. Những con người chân chất ấy họ sung sướng nhưng vẫn không quên gửi lời cảm ơn chân thành đến thần linh – “nhờ ơn trời biển lặng”… đã mang những con thuyền chở người thân của họ trở về trong bình yên.
Tất cả những hình ảnh trên chỉ còn lại trong kí ức của tác giả bởi ông đang ở nơi xa, đang từng ngày mong nhớ quê hương nơi đất khách:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi,
Thoáng con thuyền sẽ sóng chạy ra khơi”
Mọi thứ dường như đã rất quen thuộc, dường như đã ăn sâu nơi tiềm thức của nhà thơ. Bài thơ da diết, sâu lắng tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của những người làng chài sao mà chân thật, sống sộng đến thế? Phải chăng đây chính là nỗi niềm từ chính tâm tư của những con người xa quê… Để rồi Tế Hanh đã phải thốt lên:
“Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Vâng, dù đi đâu, đi thật nhiều nơi nhưng cái hương vị quê nhà, mùi của đất, của biển, của tình người vẫn mãi thấm đượm trong tác giả. Là cả một ước mong ngày trở về…Vần thơ bình dị mà gợi cảm, hình ảnh đơn giản mà sâu sắc, giọng văn nghẹn ngào cảm xúc – “Quê hương” như môt khúc nhạc nhớ thương quê hương trong sáng, da diết của nhà thơ! Quê hương – hai tiếng ấy sao mà thân thương! Mỗi lần thốt lên hay nghĩ về đều rất thiêng liêng:
“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người”
Ngoài Cảm nhận về bài thơ Quê hương, để học tốt hơn các em cần tìm hiểu thêm các bài viết khác như Tìm hiểu tâm hồn Tế Hanh qua bài thơ Quê hương cũng như Hình ảnh người dân làng chài qua bài thơ Quê hương nằm trong phần soạn bài Ngữ Văn lớp 8.
Phát biểu cảm nghĩ về cây đào ngày Tết
MichaelMet
“ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Read more
“ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
See lessCây nêu tràng pháo bánh trưng xanh. ”
Đó là những nét đẹp văn hóa truyền thống của Tết Việt, mang lại sự ấm cúng, thân thiết cho những người trong gia đình xum vầy bên nhau. Góp phần không nhỏ vào đó là màu sắc tươi thắm, tràn đầy sức sống của các loại thảo mộc, muôn hoa mùa xuân, đặc biệt là hoa đào.
Hoa đào trở nên không thể thiếu đối với mỗi cái Tết của gia đình em. Vì vậy, ngày 27 Tết, bố con em đã lên chợ hoa Đông Anh để mua đào. Bố bảo, năm nay cả nhà sẽ mua đào thế đẻ bày cho đẹp. Vào đến chợ, 1 rừng hoa Tết muôn màu hiện ra trước mắt với đủ các loại hồng, cúc, huệ, … nhiều nhất là đào. Đào có rất nhiều loại: đào bích, đào phai, đào bạch… được đưa từ Nhật Tân, Sơn La… về. Những cây đào Nhật Tân với đủ các loại thế khác nhau trông thật đẹp, khác hẳn với những cành đào Sơn La chịu nắng gió ở rừng núi nên rất cao, có thể tới 3m. Chao ôi! Thật là đẹp!
Những nụ hoa màu xanh non, nhìn kỹ mới thấy những đốm hồng li ti ở đầu. Những nụ hoa này mang 1 trọng trách lớn lao: che chở, ôm ấp những cánh hoa mỏng manh còn đang e ấp chờ đợi đến lúc có thể bừng nở rực rỡ. Em rất mong mỏi tới ngày được nhìn thấy những bông hoa đào nở đỏ thắm, màu đỏ của sự may mắn. Sáng 30, thật kỳ diệu: những bông hoa đỏ thắm đua nở rộ như vừa tỉnh sau 1 giấc ngủ dài. Những bông hoa đào chỉ nhỉnh hơn chiếc cúc áo 1 chút. Cánh hoa dạng tròn, xinh xắn như nụ cười của em bé, từng cánh hoa mỏng manh ôm lấy nhau, nương tựa vào nhau mà sống như không thể tách rời. Nhị hoa như những sợi tơ vàng óng, màu vàng của tài lộc, phú quý, làm đậm thêm sắc hoa đỏ thắm. Hoa mọc sát vào nhau tưỏng như thành từng chùm, dệt nên tấm thảm mùa xuân phủ trên từng cành cây. Tô điểm cho tấm thảm đó là những chiếc lá. Lá tuy rất ít, dài và xanh non tơ nhưng có thể làm cho tấm thảm bắt mắt hơn. Muốn có hoa đẹp lá xanh phải thầm cảm ơn thân và cành. Mới ban đầu chưa ra hoa, chúng chỉ mang bộ đồ giản dị, thô kệch màu nâu khó chiếm được cảm tình. Ai mà biết được bên trong đó ẩn chứa 1 tình mẫu tử bao la. Suốt mùa đông, thân là người mẹ nhẫn nại, chắt chiu từng ít 1 để nuôi hoa, lá hãy còn bé thơ để rồi khi xuân về bừng nở rực rỡ cùng với 1 sức sống tràn trề. Những ngày Tết, ngắm cây đào, em thầm cảm phục sự tinh tường của bố.
Nhưng thời gian không đợi những bông hoa, thời gian đã mang chị xuân đi mất rồi. Mùa hoa đã qua đi, cành cây chỉ còn lại lá và vài bông nở muộn. Tửng chừng hoa đào rụng đã mang đi sức sống của mùa xuân đọng lại trên dải lụa hồng toàn hoa rụng kín gốc cây. Hoa rụng đi nhưng vẫn muốn cất mình bay trở lại bên mẹ yêu, tiếc nuối những ngày tháng được mẹ chăm chút, còn muốn níu kéo chị xuân lại. Dường như chúng đã biết là không thể, quy luật luôn luôn vậy thôi. Ra đi, chúng chỉ muốn nhắn lại rằng bên trong thân mẹ gầy guộc ấy vẫn rạo rực 1 sức sống. Nhất định mẹ sẽ cho 1 mùa hoa mới, lũ đàn em mới xinh đẹp, khỏe khoắn mang niềm vui đến cho mọi người. Còn bây giờ, tâm hồn, những cáh hoa đã bay theo gió đi khắp nơi, ngao du sơn thủy và rồi sẽ ở lại nơi đâu không biết.
Không như hoa mai mang đến sắc vàng cho người phương Nam, hoa đào từ lâu đã là biểu tượng của Tết Bắc Việt. Màu sắc đỏ thắm của hoa đào đã tô điểm cho mùa xuân, từng dãy phố con đường, từng ngõ nhỏ làng quê, xua tan cái rét của Bắc Việt và mang đén niềm vui, may mắn trong 1 năm mới an khang, thịnh vượng.
Đề 1: Hãy chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. a. Tìm hiểu đề và tìm ý: – Xác định yêu cầu chung của đề: Cần
MichaelMet
A. Lập Dàn Ý 1. Mở bài - Tục ngữ là lời khuyên dạy của cha ông ta từ xưa - Trong đó có câu "Có công mài sắt, có ngày nên kim" khuyên ta phải biết bền chí bền lòng thì mới thRead more
A. Lập Dàn Ý
1. Mở bài
– Tục ngữ là lời khuyên dạy của cha ông ta từ xưa
– Trong đó có câu “Có công mài sắt, có ngày nên kim” khuyên ta phải biết bền chí bền lòng thì mới thực hiện được mục đích, nguyện vọng của mình.
2. Thân bài
– Giải thích câu tục ngữ:
+ “Sắt”: Vốn là những vật to lớn, bề ngoài sần sùi, không sáng bóng,đẹp đẽ, lại vô cùng cứng rắn.
+ “Kim”: Chỉ những vật vô cùng nhỏ bé, nhẵn nhụi, bề mặt sáng,hữu dụng trong cuộc sống như dùng để may vá quần áo.
+ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”: Tức là có quyết tâm, kiên nhẫn, miệt mài, ngày qua ngày mài mòn thanh sắt lớn để tạo nên thành quả là chiếc kim bé nhỏ, đẹp đẽ được tôi rèn từ một thanh sắt lớn, xấu xí.
– Nghĩa bóng:
+ “Sắt”: Tức là khó khăn, những thử thách trên con đường đạt tới mơ ước và những điều mình mong muốn. Nó cũng là những công việc nhỏ cần thiết để góp phần tạo nên thành quả xứng đáng.
+ “Kim”: Tức là thành quả sau một quá trình kiên trì, nhẫn nại thực hiện mọi thử thách và khó khăn. Nó cũng là ý nghĩa của sự luyện tập, của lòng quyết tâm bền bỉ.
+ ” Có công mài sắt, có ngày nên kim”: Là lời khuyên nhủ chúng ta phải biết cố gắng, nỗ lực, kiên trì thì sẽ được hưởng thành quả xứng đáng, đạt được ước mơ cũng như mong ước của mình. Muốn đạt được ước mơ thì phải luôn biết nỗ lực không ngừng nghỉ, phải luôn quyết tâm thực hiện tới cùng.
– Ý nghĩa của câu tục ngữ: Câu tục ngữ trên muốn khuyên nhủ chúng ta khi làm bất cứ việc gì cũng đều cần có lòng kiên trì cũng như sự quyết tâm để thực hiện. Có sự kiên trì thì dù là việc gì cũng có thể đạt được thành công như mong muốn.
– Dẫn chứng:
+ Edison sáng tạp ra bóng đèn điện với hơn hai nghìn lần thử nghiệm.
+ Hồ Chí Minh là một điển hình cho sự cố gắng, kiền trì để tạo nên thành công. Người đã bôn ba gần nửa đời người ở nơi xứ người, mong tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Cuối cùng, sau bao nỗ lực, cũng như quyết tâm sắt đá, Người đã tìm ra phương hướng, ra con đường đưa dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ, trở thành một đất nước độc lập.
+ Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thấy tấm gương thầy Nguyễn Ngọc Ký. Thầy giờ đây là một giảng viên đứng trên bục giảng. Nhưng để thực hiện được điều đó, thầy đã phải quyết tâm rèn luyện đôi chân mình để đôi chân có thể thay thế đôi tay học được những con chữ.
– Liên hệ thực tế:
+ Những bạn học sinh biết quyết tâm vươn lên, biết kiên trì học hỏi thường trở thành những đứa con ngoan, trò giỏi.
+ Mỗi người trong xã hội phải luôn có được sự quyết tâm, kiên trì trong học tập, công việc thì mới đạt được thành quả xứng đáng. Nếu không có được sự bền lòng, vững chí, dễ nản lòng thì làm việc gì cũng khó khăn. Như Bác Hồ đã dạy ” Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp bể/ Có chí ắt làm nên”.
3. Kết bài:
– Khẳng định lại ý nghĩa của câu tục ngữ đối với mọi thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ.
– Cần làm gì để xứng đáng với lời dạy của cha ông ta.
B. Bài Viết
Ngày xưa có một cậu bé bắt gặp một bà cụ đang ngồi mài một thanh sắt bên bờ sông. Cậu bé liền hỏi bà mài thanh sắt lớn thế kia để làm gì. Bà cụ liền mỉm cười trả lời rằng bà đang mài thanh sắt này thành một chiếc kim để may vá. Đây có lẽ chính là khởi nguồn của câu tục ngữ ” Có công mài sắt, có ngày nên kim” mà ông cha ta để lại. Câu tục ngữ muốn khuyên chúng ta phải có lòng kiên trì, bền chí để thực hiện quyết tâm của mình.
Tục ngữ vốn là kho tàng những lời khuyên dạy bổ ích mà ông cha ta để lại cho thế hệ con cháu. Mỗi câu tục ngữ chính là mỗi là khuyên răn để con cháu noi theo và tu dưỡng. Trong kho tàng đó, ta không thể không quen thuộc với các câu tục ngữ như “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, ” Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, hay ” Ăn cây nào rào cây nấy”, … Nhưng nói về sự quyết tâm, lòng kiên trì thì ông cha ta thường khuyên chúng ta rằng: “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Tại sao cha ông ta lại sử dụng hai hình ảnh “sắt”, “kim” để làm hình ảnh ẩn dụ, hàm ý cho con cháu mình? Bởi vì “sắt” thường là những thanh sắt lớn dài, bề ngoài sần sùi, xấu xí và lại vô cùng cứng rắn. Còn “kim” lại là một vật vô cùng nhỏ bé, sáng bóng, nhẵn nhụi, dùng để may vá quần áo. Người ta thường ví von “Mò kim đáy bể” để nói lên một sự vật sự việc không bao giờ có thể tìm thấy được. Chính vì vậy, ông cha ta mới dùng hình ảnh chiếc kim nhỏ bế kia đối lập với hình ảnh khối sắt to lớn. Để mài ra chiếc kim bé tẹo kia từ một khối sắt, thanh sắt dài thì mất bao nhiêu thời gian cơ chứ? Thật khiến cho người khác nản lòng và nói không bao giờ có thể thực hiện được. Thế nhưng, nếu chúng ta biết cố gắng, biết nỗ lực kiên trì, thì chắc chắn một ngày nào đó, chúng ta sẽ mài được chiếc kim nhỏ bé, sáng đẹp từ một khối sắt xấu xí.
Qua hình ảnh sắt và kim, ông bà ta muốn gửi gắm tới thế hệ con cháu mình những lời khuyên răn tốt đẹp. “Sắt” chính những thử thách, những khó khăn trong cuộc sống, trong công việc, học tập mà chúng ta gặp phải trên con đường thực hiện lý tưởng, cũng như mơ ước nguyện vọng của mình. Còn “kim” chính là kết quả, là ước mơ, nguyện vọng của mình, điều mà mình cần đạt tới, mong muốn đạt tới trong cuộc sống. “Có công mài sắt có ngày nên kim” muốn khuyên răn chúng ta khi làm bất cứ việc gì cũng nên đặt vào đó sự quyết tâm cũng như lòng kiên trì thì ta mới đạt được thành công như ý nguyện
Mỗi chúng ta khi làm bất cứ việc gì cũng điều nên đặt vào trong đó sự kiên trì và lòng quyết tâm thực hiện. Chỉ khi có lòng quyết tâm và kiên trì đó thì bất cứ khó khăn nào ta cũng có thể vượt qua để đạt được thành công như mong muốn. Đó là hàm ý mà ông bà ta muốn khuyên chúng ta qua câu tục ngữ trên. Nếu biết cố gắng, có sự bền bỉ ý chí thì nhất định thành công nào cũng sẽ đến với mỗi chúng ta. Trong cuộc sống, có rất nhiều khó khăn và thử thách cần chúng ta phải vượt qua, nếu không có ý chí để vượt qua thì ta không thể thành công. Hơn nữa, dù gặp thất bại hay thử thách, ta cũng cần có lòng quyết tâm thực hiện lại, chắc chắn cuối cũng chúng ta sẽ có được thành quả như ý.
Từ xưa tới nay, chúng ta đã biết tới bao con người đã dùng ý chí và lòng kiên trì của mình để tạo nên thành công. Chúng ta biết tới bóng đèn điện với dây tóc bóng đèn từ sợi Vonfram giúp thắp sáng. Nhưng các bạn có biết để có được thành quả đó, Thomas Edison đã mất hơn hai nghìn lần thử qua thử lại với các vật liệu khác nhau với tìm ra được sợi dây đốt tốt nhất. Thế mới hiểu, để có được thành công, để làm được ước nguyện của mình, Edison đã phải trải qua bao khó khăn tới nhường nào? Hai nghìn lần với bạn, bạn có dám thử làm hay không? Bạn biết tới Hồ Chí Minh, người vĩ nhân vĩ đại nhất của Việt Nam, người đã tìm ra con đường cứu nước, giúp dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ. Nhưng bạn có biết, để tìm ra chân lý sáng tỏ đời mình cũng như phương hướng giúp dân tộc, Người đã phải bôn ba nửa đời người ở nơi xứ người, làm lao công quét dọn tuyết, mọi công việc cực khổ. Nếu không có ý chí, lòng kiên trì, mong ước khát khao cháy bỏng, lòng quyết tâm sắt đá, bạn nghĩ liệu Người có thể trở thành một vĩ nhân cao lớn tới nhường ấy không? Hay chúng ta cũng biết tới người thầy giáo khuyết tật Nguyễn Ngọc Ký. Hiện thầy đang là giảng viên của một trường học. Nhưng có mấy ai biết tới một Nguyễn Ngọc Ký kiên cường dùng bàn chân thay thế bàn tay học lấy những con chữ. Khó khăn và thử thách đã được thầy vượt qua để tới nay trở thành một người khiến bao người khâm phục. Nếu không có lòng kiên trì, bền bỉ ý chí sắt đá nung nấu, liệu thầy có làm nên được kì tích khiến bao người phải khâm phục hay không?
Biết bao tấm gương trong cuộc sống mà chúng ta chứng kiến đều minh chứng cho câu tục ngữ của cha ông ” Có công mài sắt có ngày nên kim” là vô cùng đúng đắn. Ngày nay, bao thế hệ học sinh vẫn đang miệt mài, kiên trì, dùng quyết tâm của mình cố gắng hàng ngày hàng giờ để trở thành một học sinh ngoan giỏi để có thể cống hiến cho đất nước. Mỗi chúng ta đều phải thấm nhuần lời khuyên của cha ông ta. Bởi vì trong cuộc sống có rất nhiều khó khăn đang chờ ta bước tới, hãy luôn kiên tâm, bền bỉ thì nhất định chúng ta sẽ được hưởng thành quả mà chúng ta mong đợi như Hồ Chí Minh cũng đã viết:
” Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp bể
Quyết chí ắt làm nên”
Lời khuyên của cha ông ta “Có công mài sắt có ngày nên kim” mãi thấm nhuần trong tư tưởng của mỗi người. Phải luôn biết bền chí bền lòng, giữ vững lý tưởng thì nhất định chúng ta sẽ có được thành công như mong muốn. Là một người học sinh, chúng ta hãy biết phấn đấu học hành, chăm ngoan, quyết tâm, kiên trì bền bỉ, chúng ta nhất định sẽ trở thành những con người tài giỏi giúp ích cho đất nước mai sau.
See lessTính phần trăm về khối lượng của nước kết tinh trong: a, Xođa: Na2CO3.10H2O b, Thạch cao: CaSO4 .2H2O
MichaelMet
Đáp án: a) 62,94% b) 20,93% Giải thích các bước giải: a) M Na2CO3.10H2O = 23.2+12+16.3+10.(2.1+16) = 286 $\% {m_{{H_2}O}} = {{18.10} \over {286}}.100\% = 62,94\% $ b) M CaSO4.2H2O = 40 + 32 +16.4 + 2.(2.1 + 16) = 172 $\% {m_{{H_2}O}} = {{18.2} \over {172}}.100\%Read more
Đáp án:
a) 62,94%
b) 20,93%
Giải thích các bước giải:
a) M Na2CO3.10H2O = 23.2+12+16.3+10.(2.1+16) = 286
$\% {m_{{H_2}O}} = {{18.10} \over {286}}.100\% = 62,94\% $
b) M CaSO4.2H2O = 40 + 32 +16.4 + 2.(2.1 + 16) = 172
$\% {m_{{H_2}O}} = {{18.2} \over {172}}.100\% = 20,93\% $
See lessVẽ cho mik ảnh free fire nha
MichaelMet
Bạn xem thử xem sao nha!
Bạn xem thử xem sao nha!

See less1.Tính góc giữa hai đường thẳng A/x-2y-1=0, x+3y-11=0 B/2x-y+5=0,3x+y-6=0
MichaelMet
Đáp án: A ,24*36' Giải thích các bước giải: a,d1:x-2y-1=0 có VTPT n1(1,-2) d2:x+3y-11=0 có VTPT n2(1,3) cos(d1,d2)=|1.1-2.3|/ {[căn (1^2+(-2)^2)].[căn (1^2+3^2)]}=(căn2)/2 =>(d1,d2)=50 b,d1:2x-y+5=0 có VTPT n1(2,-1) d2:3x+yRead more
Đáp án:
A ,24*36′
Giải thích các bước giải:
a,d1:x-2y-1=0 có VTPT n1(1,-2)
d2:x+3y-11=0 có VTPT n2(1,3)
cos(d1,d2)=|1.1-2.3|/ {[căn (1^2+(-2)^2)].[căn (1^2+3^2)]}=(căn2)/2
=>(d1,d2)=50
b,d1:2x-y+5=0 có VTPT n1(2,-1)
d2:3x+y-6=0 có VTPT n2(3,1)
cos(d1,d2)=|2.3-1.1|/ {[căn (2^2+(-1)^2)].[căn (3^2+1^2)]}=(căn2)/2
=>(d1,d2)=50
See lesstừ láy là gì nghĩa của nó ra sao
MichaelMet
Xét về cấu tạo thì từ ghép là từ bao gồm từ hai tiếng trở lên. Xét về mặt ngữ nghĩa thì từ các tiếng cấu tạo nên từ ghép phải tạo thành một từ có nghĩa. Từ định nghĩa trên người ta phân từ ghép thành hai loại đó là từ ghép chính phụ và từ ghép đẳng lập
Xét về cấu tạo thì từ ghép là từ bao gồm từ hai tiếng trở lên. Xét về mặt ngữ nghĩa thì từ các tiếng cấu tạo nên từ ghép phải tạo thành một từ có nghĩa. Từ định nghĩa trên người ta phân từ ghép thành hai loại đó là từ ghép chính phụ và từ ghép đẳng lập
See lessphân tích hình tượng “các bô lão’ trong tác phẩm”phú sông bạch đằng”của trương hán siêu
MichaelMet
Để tìm câu trả lời chính xác các em hãy tham khảo phân tích phú sông bạch đằng các nguồn hoc24.vn, lazi.vn, hoidap247.com để thầy cô và các chuyên gia hỗ trợ các em nhé!
Để tìm câu trả lời chính xác các em hãy tham khảo phân tích phú sông bạch đằng các nguồn hoc24.vn, lazi.vn, hoidap247.com để thầy cô và các chuyên gia hỗ trợ các em nhé!
See lessLưới thức ăn là gì? Hãy xác định các thành phần chủ yếu có trong lưới thức ăn sau? Group mình câu 2 với
MichaelMet
Đáp án: Câu 1: Quần xã sinh vật là tập hợp nhiều quần thể sinh vật thuộc các loài khác nhau, cùng sống trong một khoảng không gian xác định. Các sinh vật trong quần xã có mối quan hệ gắn bó nRead more
Đáp án:
Câu 1: Quần xã sinh vật là tập hợp nhiều quần thể sinh vật thuộc các loài khác nhau, cùng sống trong một khoảng không gian xác định. Các sinh vật trong quần xã có mối quan hệ gắn bó như một thể thống nhất và do vậy, quần xã có cấu trúc tương đối ổn định. Các sinh vật trong quần xã thích nghi với môi trường sống của chúng.
Quần thể Quần xã
Đơn vị cấu trúc: Cá thể Quần thể
Số lượng loài: Chỉ một loài Gồm nhiều loài
Chức năng dinh Là một mắt xích trong Tạo lưới thức ăn với nhiều chuỗi thức ăn, nhiều dưỡng: | chuỗi thức ăn mắt xích thức ăn, đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái.
Cơ chế đảm bảo Cơ chế điều hòa mật độ Khống chế sinh học
sự cân bằng học: cá thể
Câu 2: Lưới thức ăn là tập hợp các chuỗi thức ăn, trong đó mọt loài tham gia đồng thời vào nhiều chuỗi thức ăn khác nhau.
*Các thành phần chủ yếu trong lưới thức ăn sau là:
-Sinh vật sản xuất: cây gỗ, cây cỏ.
-Sinh vật tiêu thụ: đại bàng, cầy, hổ, rắn, hươu, bọ ngựa, chuột, sâu ăn lá cây.
+Sinh vật tiêu thụ cấp 1:sâu ăn lá, chuột, hươu.
+———————– 2: bọ ngựa, cầy, rắn.
+———————– 3: rắn, đại bàng, hổ.
-Sinh vật phân giải: nấm địa y, vi sinh vật, giun đất.
See lessTrình bày hiểu biết của em về cuộc khởi nghĩa hương Khê? Vì sao cuộc khởi nghĩa hương Khê là cuộc khởi nghĩ hướng Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhấ
MichaelMet
Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng.*Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, Huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh).* Hoạt động trên địa bàn rộng gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.* Diễn biến: HRead more
Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng.
*Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, Huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh).
* Hoạt động trên địa bàn rộng gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
* Diễn biến: Hai giai đoạn
_ Từ năm 1885-1888: nghĩa quân lo tổ chức, huấn luyện, xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí và tích trữ lương thảo.
_ Từ năm 1888 đến 1895: là thời kì chiến đấu của nghĩa quân . Dựa vào vùng rừng núi hiểm trở, có sự chỉ huy thống nhất, nghĩa quân đã đẩy lui nhiều cuộc hành quân và càn quét của giặc.
+ Để đối phó Pháp tập trung binh lực và xây dựng 1 hệ thống đồn, bốt nhằm bao vây , cô lập nghĩa quân. Đồng thời chúng mở nhiều cuộc tấ công quy mô vào Ngàn Trươi.
+ Nghĩa quân phải chiến đấu trong điều kiện ngày càng gian khổ hơn, lực lượng suy yếu dần.
+ Sau khi chủ tướng Phan Đình Phùng hi sinh, cuộc khởi nghĩa được duy trì thêm một thời gian dài rồi tan rã.
* Kết quả: Cuộc khởi nghĩa thất bại.
Vì cuộc khởi nghĩa Hương Khuê có quy mô lớn nhất, lực lượng đông đảo nhất , được toàn dân ủng hộ và kề vai sát cánh đấu tranh
See less