viết đoạn văn diễn dịch ( khoảng 12 câu ) trình bày cảm nhận về đoạn thơ ” khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng, dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá, chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã, phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang, cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, rướn thân trắng bao la thâu góp gió ” trong đoạn có sử dụng một câu cảm thán và một trợ từ ( gạch chân , chú thích )
Đoạn thơ mở ra trước mắt ta hình ảnh ra khơi đánh cá của ngư dân trong buổm bình minh. Thời gian ra khơi được thể hiện qua từ “sớm mai hồng”. Trong không khí ra khơi ấy có cả nắng ấm, có cả sự ưu ái của thiên nhiên: trời trong, gió nhẹ. Hình ảnh liệt kê giúp ta hiểu hơn về tín hiệu, về công việc lao đông của người dân chài. Công việc ấy gắn liền với tự nhiên, với đất trời bao la. Người ngư dân hiện lên trong câu thơ của Tế Hanh là những trai tráng. Dẫu khó nhọc, vất vả nhưng họ vẫn vươn mình và đáng khâm phục vô cùng! Họ là những người lao động làm chủ biển khơi và mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người. Sức mạnh của họ làm con thuyền sống dậy và được khắc họa chân thực, sống động qua so sánh “như con tuấn mã”. Con tuấn mã ấy vượt muôn trùng đại dương, mang đến hạnh phúc. Động từ mạnh “phăng, vượt, giương, rướn” cũng thể hiện được khí thế, sức mạnh của người dân chài làm chủ biển khơi. Tế Hanh khắc họa cánh buồm no gió trong so sánh “như mảnh hồn làng” và đó đồng thời cũng là một ẩn dụ gợi hình. Nó thổi bay lên những mơ ước, những khát khao của con người. Chính cánh buồm no gió đã làm sống lên sức mạnh, làm cháy niềm tin của ngư dân biển khơi.
Câu cảm thán gạch chân
Trợ từ in đậm
sau hai câu đầu giới thiệu quê hương thân yêu của mình là một làng chài”cách biển nửa ngày sông”, tác giả nhắc lại cuộc sống lao động ra khơi đánh cá và cảnh dân làng tấp nập đón đoàn thuyền trở về bến sau một chuyến ra khơi gặp nhiều may mắn. Đoạn thơ gợi lên những hoạt cảnh thật đẹp và đáng yêu:”Khi trời trong,gió nhẹ, sớm mai hồng … Dân trai tráng bơi thyền đi đánh cá.”.Thời điểm đoàn thuyền ra khơi là một bình minh lí tưởng: “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”. Bầu trời trong sáng, không một gợn mây, gió nhè nhẹ thổi, ánh hồng bình minh phớt hồng chân trời. Khung cảnh ấy dự báo một chuyến ra khơi gặp trời êm biển lặng. Những chiếc thuyền buồm là biểu tượng cho sức mạnh và khí thế ra khơi đánh cá của đoàn trai tráng làng chài:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang”.
PHẢI CHĂNG Hăng” nghĩa là hăng hái, hăng say gợi tả khí thế ra khơi vô cùng mạnh mẽ, phấn chấn. Con thuyền được so sánh “hăng như con tuấn mã” là một so sánh độc đáo. Tuấn mã là ngựa tơ, ngựa khỏe, ngựa đẹp và phi nhanh. Những con thuyền lướt sóng như đoàn tuấn mã phi như bay với khí thế hăng say, với tốc độ phi thường. Những chiếc mái chèo từ cánh tay của “dân trai tráng” như những lưỡi kiếm dài, to lớn chém xuống, “phăng” xuống mặt nước, đẩy con thuyền vượt trường giang một cách “vội vã”, “mạnh mẽ”. Trước đây, nhà thơ viết: “Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang”, nhưng sau này, tác giả thay chữ “mạnh mẽ” bằng chữ “vội vã”. Có lẽ vừa diễn tả một chuyến ra khơi hối hả, khẩn trương, vừa để hiệp vần: tiếng “vã” vần với tiếng “mã” làm cho vần thơ giàu âm điệu gợi cảm. Hình ảnh thứ ba là cánh buồm. Cánh buồm nâu dãi dầu mưa nắng, sương gió biển khơi nên đã trắng bạc, thành “chiếc buồm vôi”:”Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp giỏ”.”Trương” là “giương” lên cao to, được gió thổi căng phồng đê “bao la thâu góp gio”. Lần thứ hai, Tế Hanh sáng tạo nên một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp: “Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng”. Cánh buồm tượng trưng cho sức mạnh và khát vọng ra khơi đánh cá, chinh phục biển để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cánh buồm – mảnh hồn làng – ấy còn LÀ niềm hi vọng to lớn của làng chài quê hương. Chữ “rướn” là từ gợi tả, đặc sắc. Con thuyền, cánh buồm như ưỡn ngực ra, hướng vẻ phía trước, xốc tới với sức mạnh to lớn, với khí thế hăm hở phi thường, vượt qua mọi trở lực, khó khăn.
CÂU CẢM THAN :phải chăng
trờ từ : là