Phân tích về những chiếc xe và người lính lái xe của bài thơ “Bài Thơ về tiểu đội xe ko kính ” của phạm tiến duật

Phân tích về những chiếc xe và người lính lái xe của bài thơ “Bài Thơ về tiểu đội xe ko kính ” của phạm tiến duật

0 thoughts on “Phân tích về những chiếc xe và người lính lái xe của bài thơ “Bài Thơ về tiểu đội xe ko kính ” của phạm tiến duật”

  1. Bài làm!

    Bài làm
    Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông từng cầm súng chiến đấu và công tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ hậu phường ra tiền tuyến : “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu). Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra trận lúc bấy giờ như ánh sáng chói chang, như gió mát lồng lộng phả vào tâm hồn nhà thơ – chiến sĩ, khiến thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu thật khoẻ khoắn, tràn đầy sức sống, rất tinh nghịch, tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy. Không rõ nhà thơ đã từng bao nhiêu lần trực tiếp cầm lái, hay ngồi trong ca bin bên cạnh người lái, mà ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm hứng và suy nghĩ trong bài lại chân thực, sống động đến vậy. Tất cả, cứ hiển hiện hồn nhiên, trực diện ngay trước bạn đọc : những chiếc xe không kính, cả tiểu đội xe, tiểu đội lính vận tải vui vẻ, tếu táo mà thật đĩnh đạc, hiên ngang, can đảm…

    Mở đầu bài thơ là một hình ảnh trớ trêu : “Xe không có kính”. Kết thúc là một hình ảnh bất ngờ : “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Phải chăng, tiểu đội xe không kính ấy lăn bánh thông đường mau lẹ được là nhờ… “những trái tim cầm lái” ? Xin hãy lắng nghe lời người chiến sĩ lái xe, hãy đọc thơ và suy ngẫm…
    Không có kính không phải vì xe không có kính
    Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
    Lời kể, hay lời giới thiệu đoàn xe ? Ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Cứ ý như một đoàn xe đang lừng lững tiến lại. Những chiếc xe kì lạ – “không có kính” (chắn gió) – mà thật anh hùng, đang vượt qua chặng đường nguy hiểm quân thù đánh phá ác liệt : “Bom giật, bom rung kính vỡ di rồi”. Trên những chiếc xe ấy, người chiến sĩ đang vững tay lái. Vừa nhấn ga cho xe lăn bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội :
    Ung dung buồng lái ta ngồi,
    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
    Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
    Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
    Như sa như ùa vào buồng lái.
    Đó là những câu thơ tả thực, sự thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh, nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”. Nào là “con đường chạy thẳng vào tim” rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đập, quăng ném,… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động, cụ.thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực dường ấy. Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt. Trái lại, tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng… Các anh vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi – Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng…”. Hai câu thơ có nhịp thật cân đối : 2 / 2 / 2 và 2 / 2 / 2 /. Đó là sự căng thẳng của chiếc xe đang lăn bánh, sự thanh thản, bình tĩnh, tự tin của người lái. “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng… Nhìn thấy, nhìn thấy… thấy…”. Những điệp từ ấy cứ nhấn đi nhấn lại, biểu hiện sự tập trung cao độ của người lái. Hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm, gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường. Có chỗ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát – vút cao, vui vẻ :
    Không có kính, ừ thì có bụi,
    Bụi phun tóc trắng như người già
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
    Nếu ở hai khổ thơ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách – dù sao cũng vẫn mơ hồ – thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thổ, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn, mưa xối” – hậu quả tất yếu của những chiếc xe bị mất kính bảo vệ. Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn, “Không có kính, ừ thì có bụi… Không có kính, ừ thì ướt áo” – những câu thơ như lời nói thường, nôm na mà cứng cói, toát ra một thái độ bất chấp mọi khó khăn. Đằng sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy :
    Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
    Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Thanh điệu phối hợp khá linh hoạt : thanh bằng – trắc (phì phèo châm — điếu thuốc) ; trắc – bằng (mặt lấm – cười ha ha) ; rồi lại bằng – trắc (trâm cây – số nữa). Và cuối đoạn là câu thơ bảy tiếng, sáu thanh bằng (“Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”) gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui sôi nổi của tuổi mười tám đôi mươi. Nhạc vui hài hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh : “… phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” và một ý nghĩ táo tợn : “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa” làm cho thơ rộn rã, sôi động, luôn luôn hối hả, như sự sôi động, hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
    Song, cũng có lúc đoàn xe dừng lại. Ấy là lúc ngồi nghỉ hoặc tới đích, giao hàng. Hai khổ thơ thứ năm và thứ sáu miêu tả những cuộc gặp gỡ, vui vầy trong không khí đoàn kết, trong tình đồng chí, đồng đội thật cảm động :
    Những chiếc xe từ trong hom rơi
    Đã về đây họp thành tiểu đội.
    Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
    Chung hát đũa nghĩa lù gia đình đấy.
    Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi. Khi hành quân, các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Lúc cắm trại các anh trò chuyện, ăn uống nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt : chung bát, chung đũa, “mắc võng chông chênh” … song cũng chỉ trong một thoáng chốc. Để rồi, lại tiếp tục hành quân : “Lại đi, lại đi trời xanh thêm…”. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ :
    Không có kính, rồi xe không có đèn,
    Không có mui xe, thùng xe có xước,
    Xe vẩn chạy vì miền Nam phía trước :
    Chỉ cần trong xe có một trái tim.
    Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị.
    Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước vỡ,… Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “Không có kính / rồi xe không có đèn – Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai, bom đạn, bốn khúc “cua vòng, rẽ ngoặt”… trêu ngươi, chọc tức đoàn xe.
    Hai câu cuối :
    Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước :
    Chỉ cần trong xe có một trái tim.
    có âm điệu đối chọi, mà trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất đất nước. Đặc biệt toả sáng chói ngời cả đoạn thơ, bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ? Tình yêu Tổ quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích ? Ngữ điệu của câu thơ “Chỉ cần trong xe có một trái tim” thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc hoạ hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật đằm sâu, trĩu nặng. Ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta : sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người – con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là “nhãn tự”, là “con mắt của bài thơ”, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ.
    Trở lại với phong cách thơ Phạm Tiến Duật như phần đầu đã nêu, đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính, cũng như một vài tác phẩm tiêu biểu khác của ông — Lửa đèn; Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Nhớ,… chúng ta thật thú vị, nhận ra cái chất giọng rất trẻ, rất lính của bài thơ. Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo : những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí quyết chiến vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn. Nổi bật trong cả bài thơ là hình ảnh : trong xe có một trái tim và một chất giọng vui đùa, hóm hỉnh, lãng mạn.
    Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiêm. Do đó không phải ngẫu nhiên tác giả đặt tên cho tác phẩm là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Bài thơ, chất thơ toả ra từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui cuộc sống của con người thời đại. Chất thơ ấy đi từ sự giản dị của ngôn từ, sự linh hoạt của nhạc điệu, sự sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, chi tiết…, đã khắc hoạ đậm nét những vẻ đẹp phẩm giá con người, và cuối cùng cất bổng lên, hoà nhập với âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn của cả giai đoạn văn học Việt Nam trong ba thập kỉ chiến tranh chống xâm lược – từ năm 1945 đến năm 1975.

    Chúc bạn học tốt!

    Cho mình xin Tim và Vote và Hay nhất nhé!

    Reply
  2. Viết về những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã đưa vào bài thơ của mình một hình ảnh vô cùng độc đáo mà không kém phần mới lạ, đó chính là những chiếc xe không kính. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã dựng lên được hình ảnh cao đẹp của những người lính lái xe thông qua hình ảnh của những chiếc xe không kính.

    Mở đầu bài thơ, tác giả đã nói một cách đầy hài hước về những chiếc xe không kính và nguyên nhân dẫn đến tình trạng không kính ấy:

    “Không có không phải xe không có kính

    Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

    Ung dung buồng lái ta ngồi

    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

    Những chiếc xe tải chuyên dùng để vận chuyển quân lương, thuốc thang, hàng tiếp viện cho miền Nam đã từng là những chiếc xe lành lặn và đầy đủ những phụ kiện tối thiểu. Nhưng do bom đạn mà quân giặc thả xuống nhằm chặn đứt con đường chi viện mà chiếc xe bị tàn phá nặng nề. Không chỉ méo mó về hình dạng mà những chiếc kính xe cũng bị vỡ. Đối lập với tình trạng của chiếc xe, những người lính lái xe vẫn hiên ngang làm nhiệm vụ với tinh thần ung dung, tự tại cùng đôi mắt vô cùng kiên định “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

    “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

    Thấy con đường chạy thẳng vào tim

    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

    Như sa như ùa vào buồng lái”

    Kính vỡ, những người lính lái xe phải làm việc trong điều kiện vô cùng khó khăn, khốc liệt. Xe chạy nhanh cho kịp hành trình mà những tấm kính bị vỡ đi rồi, vì vậy mà những người lính bị gió lùa vào khiến đôi mắt cay xẻ, gây cản trở tầm nhìn. Nhưng trong cái khó khăn thì tầm nhìn lí tưởng của những người lính dường như càng được mở rộng, càng sáng rõ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Những hiện tượng, sự vật của tự nhiên như cánh chim, sao trời bỗng chốc trở thành những người bạn đồng hành với những người lính trong cuộc hành trình nhiều gian lao.

    “Không có kính ừ thì có bụi

    Bụi phun tóc trắng như người già

    Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

    Không có kính nên bụi đất bên đường cũng nhuộm trắng xóa những mái đầu xanh của người lính lái xe. Trong cái nhìn đầy lạc quan, yêu đời,những người lính lại có cách nhìn đầy hài hước về những mái đầu đầy bụi đất ấy, nhìn nó trắng xóa như tóc người già.Trong cuộc hành trình dài, những người lính vẫn có những phút giây giải lao trong chớp nhoáng, họ đã cùng nhau hút thuốc phì phèo, cùng nhau cười đùa đầy vui vẻ về những mái đầu bạc.

    “Không có kính rồi xe không có đèn

    Không có mùi rồi thùng xe có xước

    Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

    Chỉ cần trong xe có một trái tim”

    Những chiếc xe bị tàn phá nghiêm trọng, không có kính, thùng xe bị xước, không có đèn- nghĩa là thiếu đi rất nhiều những phụ kiện cơ bản đảm bảo cho cuộc hành trình.Nhưng không vì vậy mà cuộc hành trình này bị gián đoạn, những chiếc xe vẫn chạy theo hành trình định sẵn, đó chính là hướng về miền Nam ruột thịt “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Bởi trong xe có một trái tim, đây là trái tim đầy nồng nhiệt của một người con yêu nước, của một người chiến sĩ đầy kiên cường và quả cảm.

    Hình ảnh những người lính hiện lên mới thật sinh động, đáng quý làm sao. Thông qua hình ảnh đầy đặc sắc của những chiếc xe không kính, Phạm tiến Duật đã đi xây dựng thành công bức tượng đài về tinh thần dũng cảm cùng sự kiên cường của những người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

    Reply

Leave a Comment